Wednesday, November 11, 2020

(KINH PHỔ MÔN – CẦU AN)

 

PHẬT NÓI
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
PHẨM QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN
(KINH PHỔ MÔN – CẦU AN)
                Dịch chữ Hán : Pháp sư Tam tạng Cưu Ma La Thập 
                                                        nước Dao Tần, đời Đông Tấn. 
                Dịch chữ Việt : Hòa thượng Thích Trí Tịnh.
 
1) BẠCH HỎI SỞ NHÂN
Lúc bấy giờ, ngài Vô Tận Ý Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng : “Thế tôn ! Ngài Quán Thế Âm Bồ tát do nhơn duyên gì mà tên là Quán Thế Âm ?”. ¦
2) THOÁT TÁM ĐIỀU NẠN
Phật bảo ngài Vô Tận Ý Bồ tát : “Thiện nam tử ! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều đặng giải thoát.
Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng, vì do sức oai thần của Bồ tát này đặng như vậy.
Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ tát này liền đặng chỗ cạn.
Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm các thứ châu báu như : vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu ... , nên vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tấp nơi nước quỉ La sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, thời các người đó đều đặng thoát khỏi nạn quỉ La sát. Do nhơn duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.
Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát tức thời dao gậy của người kia cầm, liền gãy từng khúc mà đặng thoát khỏi.
Nếu quỉ dạ xoa cùng La sát đầy trong cõi Tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, thời các quỉ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại đặng.
Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, thảy đều đứt rã, liền đặng thoát khỏi.
Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi Tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt đoàn người buôn, đem theo nhiều của báu trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng : “Các thiện nam tử ! Chớ nên sợ sệt, các ông phải nên một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, vị Bồ tát đó hay đem pháp Vô úy thí cho chúng sanh, nếu các ông xưng danh hiệu Ngài thời sẽ đặng thoát khỏi oán tặc này”.
Đoàn người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng : “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát !” ¦. Vì xưng danh hiệu Bồ tát, nên liền đặng thoát khỏi.
Vô Tận Ý ! Quán Thế Âm đại Bồ tát sức oai thần cao lớn như thế.
Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát, liền đặng lìa lòng dâm ý dục.
Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát, liền đặng lìa lòng giận hờn.
Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát, liền đặng lìa ngu si.
Vô Tận Ý ! Quán Thế Âm Bồ tát có những sức oai thần lớn nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ đến Ngài. ¦

3) TOẠI HAI ĐIỀU CẦU : Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán Thế Âm Bồ tát, liền sanh con trai phước đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, vì trước đã trồng cội phước đức, mọi người đều kính mến.
Vô Tận Ý ! Quán Thế Âm Bồ tát có sức thần như thế. ¦

4) SO SÁNH CÔNG ĐỨC LỄ NIỆM : Nếu có chúng sanh cung kính, lễ lạy Quán Thế Âm Bồ tát, thời phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát.
Vô Tận Ý ! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ tát, lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao ? Công đức của người thiện nam, người thiện nữ đó có nhiều chăng ?”.
Vô Tận Ý thưa : “Bạch Thế tôn ! Rất nhiều”. Phật nói : “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn muôn ức kiếp không thể cùng tận.
Vô Tận Ý ! Thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, đặng vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế ”. ¦

5) MƯỜI CHÍN LOẠI THUYẾT PHÁP : Ngài Vô Tận Ý Bồ tát bạch Phật rằng : “Thế tôn ! Quán Thế Âm Bồ tát dạo đi trong cõi Ta Bà như thế nào ? Vì chúng sanh nói pháp như thế nào ? Sức phương tiện việc đó như thế nào ?”.
Phật bảo Vô Tận Ý Bồ tát : “Thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật đặng độ thoát, thời Quán Thế Âm Bồ tát liền hiện thân Phật mà vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Duyên giác đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Duyên giác vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Thanh văn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Thanh văn vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Phạm vương đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Phạm vương vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Đế thích đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Đế thích vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Tự tại thiên đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tự tại thiên vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Đại Tự tại thiên đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Đại Tự tại thiên vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Thiên đại Tướng quân đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Thiên đại Tướng quân vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Tỳ sa môn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tỳ sa môn vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Tiểu vương đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tiểu vương vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Trưởng giả đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Trưởng giả vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Cư sĩ đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Cư sĩ vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Tể quan đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tể quan vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Bà la môn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Bà la môn vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà la môn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân phụ nữ vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân đồng nam đồng nữ đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân đồng nam đồng nữ vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, Nhơn cùng Phi nhơn đặng độ thoát, Bồ tát liền đều hiện thân vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Chấp Kim cang thần đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện Chấp Kim cang thần vì đó nói pháp.
Vô Tận Ý ! Quán Thế Âm Bồ tát đó, thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, như thế cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán Thế Âm Bồ tát.
Quán Thế Âm Bồ tát đó, ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự Vô úy, cho nên cõi Ta Bà này đều gọi ngài là vị Thí Vô Úy”. ¦

6) CÚNG DƯỜNG : Vô Tận Ý Bồ tát bạch Phật : “Thế tôn ! Con nay phải cúng dường Quán Thế Âm Bồ tát”. Ngài liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu, giá trị trăm nghìn lượng vàng nơi cổ, đem cúng dường cho ngài Quán Thế Âm mà nói rằng: “Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo Pháp thí này”.
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô Tận Ý lại thưa cùng Quán Thế Âm Bồ tát rằng : “Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này”.
Bấy giờ, Phật bảo Quán Thế Âm Bồ tát: “Ông nên thương Vô Tận Ý Bồ tát này và hàng Tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, Nhơn và Phi nhơn v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó”.
Tức thời Quán Thế Âm Bồ tát thương hàng Tứ chúng và Trời, Rồng, Nhơn, Phi nhơn v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần : một phần dưng đức Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần dưng tháp của Phật Đa Bảo.
Vô Tận Ý ! Quán Thế Âm Bồ tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta Bà. ¦

7) TRÙNG TỤNG : Lúc đó ngài Vô Tận Ý Bồ tát nói kệ hỏi Phật rằng :
     –   Thế tôn đủ tướng tốt !
          Con nay lại hỏi Kia,
          Phật tử nhơn duyên gì,
          Tên là Quán Thế Âm ?
     –   Đấng đầy đủ tướng tốt,
          Kệ đáp Vô Tận Ý :
          Ông nghe hạnh Quán Âm,
          Khéo ứng các nơi chỗ,
     –   Thệ rộng sâu như biển.
          Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn,
          Hầu nhiều nghìn Đức Phật,
          Phát nguyện thanh tịnh lớn.
     –   Ta vì ông lược nói :
          Nghe tên cùng thấy thân,
          Tâm niệm chẳng luống qua,
          Hay diệt khổ các cõi.
     –   Giả sử sanh lòng hại,
          Xô rớt hầm lửa lớn,
          Do sức niệm Quán Âm,
          Hầm lửa biến thành ao.
     –   Hoặc trôi giạt biển lớn,
          Các nạn quỉ, cá, rồng,
          Do sức niệm Quán Âm,
          Sóng mòi chẳng chìm đặng.
     –   Hoặc ở chót Tu Di,
          Bị người xô rớt xuống,
          Do sức niệm Quán Âm,
          Như mặt nhựt treo không.
     –   Hoặc bị người dữ rượt,
          Rớt xuống núi Kim Cang,
          Do sức niệm Quán Âm,
          Chẳng tổn đến mảy lông.
     –   Hoặc gặp oán tặc vây,
          Đều cầm dao làm hại,
          Do sức niệm Quán Âm,
          Đều liền sanh lòng lành.
     –   Hoặc bị khổ nạn vua,
          Khi hành hình sắp chết,
          Do sức niệm Quán Âm,
          Dao liền gảy từng đoạn.
     –   Hoặc tù cấm xiềng xích,
          Tay chân bị gông cùm,
          Do sức niệm Quán Âm,
          Tháo rã đặng thoát khỏi.
     –   Nguyền rủa các thuốc độc,
          Muốn hại đến thân đó,
          Do sức niệm Quán Âm,
          Trở hại nơi bổn nhơn.
     –   Hoặc gặp La sát dữ,
          Rồng độc, các loài quỉ,
          Do sức niệm Quán Âm,
          Liền đều không dám hại.
     –   Hoặc thú dữ vây quanh,
          Nanh vuốt nhọn đáng sợ,
          Do sức niệm Quán Âm,
          Vội vàng bỏ chạy thẳng.
     –   Rắn độc cùng bò cạp,
          Hơi độc khói lửa đốt,
          Do sức niệm Quán Âm,
          Nghe tiếng tự bỏ đi.
     –   Mây sấm nổ sét đánh,
          Tuông giá xối mưa lớn,
          Do sức niệm Quán Âm,
          Liền đặng tiêu tan cả.
     –   Chúng sanh bị khổn ách,
          Vô lượng khổ bức thân,
          Quán Âm sức trí diệu,
          Hay cứu khổ thế gian.
     –   Đầy đủ sức thần thông,
          Rộng tu trí phương tiện,
          Các cõi nước mười phương,
          Không cõi nào chẳng hiện.
     –   Các loài trong đường dữ :
          Địa ngục, quỉ, súc sanh,
          Sanh, già, bịnh, chết khổ,
          Lần đều khiến dứt hết.
     –   Chơn quán, thanh tịnh quán,
          Trí huệ quán rộng lớn,
          Bi quán và từ quán,
          Thường nguyện thường chiêm ngưỡng,
     –   Sáng thanh tịnh không nhơ,
          Huệ nhựt phá các tối,
          Hay phục tai gió lửa,
          Khắp soi sáng thế gian.
     –   Lòng Bi răn như sấm,
          Ý Từ diệu dường mây,
          Xối mưa pháp cam lồ,
          Dứt trừ lửa phiền não.
     –   Cãi kiện qua chỗ quan;
          Trong quân trận sợ sệt,
          Do sức niệm Quán Âm,
          Cừu oán đều lui tan.
     –   Diệu âm, Quán Thế Âm,
          Phạm âm, hải triều âm,
          Tiếng hơn thế gian kia,
          Cho nên thường phải niệm.
     –   Niệm niệm chớ sanh nghi,
          Quán Âm bực Tịnh thánh,
          Nơi khổ não, nạn chết,
          Hay vì làm nương cậy.
     –   Đủ tất cả công đức,
          Mắt lành trông chúng sanh,
          Biển phước lớn khôn lường,
          Cho nên phải đảnh lễ ! ¦

8) TỔNG KẾT NGHE KINH ĐẶNG CÔNG ĐỨC LỚN
 : Bấy giờ, ngài Trì Địa Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật bạch rằng : “Thế tôn ! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ tát đạo nghiệp tự tại, Phổ Môn thị hiện sức thần thông này, thời phải biết công đức người đó chẳng ít”.
Lúc Phật nói phẩm Phổ môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh, đều phát tâm Vô đẳng đẳng, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. ¦ ¦
chơn ngôn Kinh Diệu Pháp Liên hoa,
phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ môn :
Án, đa rị đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha. (3 lần) ¦

CHƠN NGÔN SÁU CHỮ ĐẠI MINH :
Án, ma ni bát di hồng. (21 lần) ¦

KỆ KHEN PHỔ MÔN
        Phổ môn hiện rõ ở Ta Bà,
        Chúng sanh kêu cứu khắp gần xa,
        Từ bi thuyết pháp tùy loài hiện,
Tám nạn ba tai chẳng đến nhà.¦

MƯỜI HAI NGUYỆN LỚN
(Tùy khóa lễ, có thể miễn lạy)
1.- Nam mô hiệu Viên Thông danh Tự Tại, Quán Âm Như lai, quảng phát hoằng thệ nguyện. ¦ (1 lạy)
2.- Nam mô nhứt niệm tâm vô quái ngại, Quán Âm Như lai, thường cư Nam Hải nguyện. ¦ (1 lạy)
3.- Nam mô trụ Ta Bà, U minh giới, Quán Âm Như lai, tầm thinh cứu khổ nguyện. ¦ (1 lạy)
4.- Nam mô hàng tà ma, trừ yêu quái, Quán Âm Như lai, năng trừ nguy hiểm nguyện. ¦ (1 lạy)
5.- Nam mô thanh tịnh bình thùy dương liễu, Quán Âm Như lai, cam lồ sái tâm nguyện. ¦ (1 lạy)
6.- Nam mô đại từ bi, năng hỷ xả, Quán Âm Như lai, thường hành bình đẳng nguyện. ¦ (1 lạy)
7.- Nam mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quán Âm Như lai, thệ diệt tam đồ nguyện. ¦ (1 lạy)
8.- Nam mô vọng nam nham, cần lễ bái, Quán Âm Như lai, già tỏa giải thoát nguyện. ¦ (1 lạy)
9.- Nam mô tạo pháp thuyền du khổ hải, Quán Âm Như lai, độ tận chúng sanh nguyện. ¦ (1 lạy)
10.- Nam mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quán Âm Như lai, tiếp dẫn Tây phương nguyện. ¦ (1 lạy)
11.- Nam mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quán Âm Như lai, Di Đà thọ ký nguyện. ¦ ¦ (1 lạy)
12.- Nam mô đoan nghiêm thân vô tỷ tái, Quán Âm Như lai, quả tu thập nhị nguyện. ¦¦ ¦ (1 lạy)
 
KỆ KHEN QUAN ÂM
  Quan Âm Bồ tát hiệu Viên Thông,
  Mười hai nguyện lớn rộng mênh mông,
  Cứu giúp mọi người trong biển khổ,
  Từ bi độ chúng khắp non sông.
Nam mô Thánh Quan Tự Tại Bồ tát
 Ma ha tát. (3 lần) ¦ ¦

No comments:

Post a Comment